Thời Thiệu Trị Trần Thị Đang

Năm Thiệu Trị thứ nhất, tháng 3 ngày Nhâm Tý (tức 18 tháng 4 năm 1841) Hoàng đế Thiệu Trị dâng tôn hiệu cho bà là Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng Thái Hậu (仁宣慈慶太皇太后)[17]. Sách văn rằng:

Kính nghĩ: Thánh Tổ mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Hoàng thái hậu bệ hạ, nghiêm tĩnh để ơn lành, bao rộng ra đức hóa, rõ rệt đức hay mà sửa giáo hóa trong khuê khổn[Ghi chú 9], giúp cho Thế Tổ ta[Ghi chú 10] 18 năm dựng cơ đồ, nói tốt người trước mà để lại người sau, mở cho tiên đế ta[Ghi chú 11] 21 năm thái bình thịnh trị. Tuổi thọ vui vẻ, được nhiều phúc tốt, ơn trạch thấm khắp nước nhà, dài lũ đông đàn lâu đội ơn trời, phúc lộc để cho con cháu. Phụng dưỡng tôn vinh đủ làm vu danh xưng cao quý lâu tỏ vẻ vang để được kế thừa người khác, nhận nghiệp lớn này, yêu con nối nhờ về Phúc ấm, phong hậu, cho nên nối công chí xưa cần nghi đạo hiếu, điển tôn xưng phải nên long trọng cử hành. Nên dã kính cáo nhà tôn miếu, bưng sách vàng ấn vàng[Ghi chú 12], kính dâng tôn hiệu là: Nhân Tuyên Từ Khánh Thái Hoàng thái hậu.
— Sách văn tấn tôn - Đại Nam liệt truyện

Mùa hạ cùng năm, Hoàng đế Thiệu Trị truy phong cha bà lên làm Cần chính điện đại học sĩ Thái sư, tước hiệu là Thọ Quốc công (壽國公), Lê phu nhân là Thọ Quốc nhất phẩm phu nhân (壽國一品夫人)[18].

Mỗi khi rỗi việc, vua Thiệu Trị lại đến cung Từ Thọ hỏi han sức khỏe bà[19]. Bà thường thong dong dặn dò vua về việc tin dùng người cũ, tuân theo phép nước, tiếp nối ý chí và việc làm của ông cha sao cho xứng đáng là một vị Hoàng đế. Lại cho bài luận về vua tôi, dạy bảo rất cặn kẽ cho vua nghe[17].

Khi Thiệu Trị đến hầu cơm, bà dụ rằng: " Hoàng đế hầu cơm, đi bằng đầu gối, dâng đũa chính tay điều hòa nước canh, vui vẻ dâng chén, nhất nhất đều tuân theo chí của người trước, tình lễ thực là đầy đủ cả". Hoàng đế giơ tay lên trán mà lạy tạ.[18]

Bà thường dạo chơi vườn Thường Mậu, lên lầu Ký Ân, xa có thể trông thấy ruộng tịch điền, dụ rằng: "Thánh Tổ Nhân hoàng đế (tức Minh Mạng) yêu quý, chú ý đến Hoàng đế (tức Thiệu Trị), khác hẳn những người con khác, Tổ mẫu già này biết rõ từ lâu. Năm trước Thánh tổ Nhân Hoàng đế dựng ra vườn này, vì sợ sự giàu sang dễ thành ra kiêu căng xa xỉ, không biết lo cho dân, thương nhà nông, cho nên dựng nhà phủ đệ cho Hoàng đế ở trước ruộng tịch điền, khiến cho Hoàng đế biết cấy gặt khó nhọc. Hoàng đế nên nghĩ kỹ về tiết kiệm, chớ xa xỉ về ăn uống, sửa sang cung điện nhà vườn để làm vui, thực không phải là chí của người trước."[18]

Mùa xuân năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua Thiệu Trị tuần du ra Bắc. Vua từng có ý muốn để Hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm lưu lại Kinh đô vì lo con trưởng Hồng Bảo không làm được việc. Song Thái hoàng thái hậu lại cho rằng tuy Hồng Bảo ít học, nhưng Hoàng trưởng tử lưu kinh đã là lệ cũ, hơn nữa bên cạnh vẫn có các đại thần giúp việc, cho nên không cần thay đổi. Vua không dám trái ý bà, cuối cùng để Hồng Bảo ở lại Kinh đô, đưa Hoàng tử thứ hai theo mình ra Bắc[20].

Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), Thái hoàng thái hậu đến chơi vườn Cơ Hạ. Hoàng đế Thiệu Trị quỳ đón ở cửa vườn, đi trước dẫn đường, theo sau là võng chở bà đi thưởng ngoạn. Khi coi ao Minh Giám, thấy cá làm sóng gợn, câu được nhiều cá tốt, bà lại dụ rằng: "Cá ở ao không lo chài lưới, đầm ruộng cũng chẳng hơn thế, đạo nhân quân làm chính trị, cốt nên thân người hiền xa kẻ gian, răn xa xỉ, chuộng tiết kiệm, Hoàng đế nên nhớ kỹ đấy."[21].

Đầu mùa hạ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), vua cho đúc ấn vàng Từ Thọ cung bảo dâng lên cho bà để khi có công việc trong cung thì sử dụng[22].

Cũng trong năm đó, trong cung có việc tốt là "ngũ đại đồng đường". Chắt lớn nhất của bà, tức hoàng trưởng tử của vua Thiệu Trị là An Phong công Hồng Bảo sinh con đầu lòng đặt tên là Ưng Phúc. Ưng Phúc được ẵm vào hầu trong cung Từ Thọ và cho nuôi nấng ở trong cung[23]. Ngũ đại đồng đường vốn là việc hiếm thấy xưa nay, cho nên tháng 11 ngày Kỷ Mùi (tức 30 tháng 11 năm 1845), vua Thiệu Trị dâng kim sách tấn tôn bà là Thánh Tổ Mẫu Nhân Tuyên Từ Khánh Phúc Thọ Khang Ninh Thái Hoàng Thái Hậu (聖祖母仁宣慈慶福壽康寧太皇太后)[21].